Quang lâm dâng hương tưởng niệm và cử hành buổi lễ có Chư tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS, Chư tôn giáo phẩm Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh TT-Huế; Chư tôn đức Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh; Chư tôn đức Tăng Ni các tổ đình, tự viện cùng đông đảo bà con Phật tử các giới tại Thừa Thiên Huế và các tỉnh, thành phố.
Thượng Điện chùa Tường Vân
Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết, huý Nguyễn Văn Kính, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (1890) tại làng Dưỡng Mong Thượng, xã Phú Mỹ, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, con trai thứ 3 của cụ Nguyễn Văn Toán và bà Tôn Nữ Thị Lý.
Năm lên chín tuổi, ngài bắt đầu theo học chữ Nho. Với tư chất thông minh, chẳng bao lâu ngài đã tinh thông những bộ sách căn bản của Nho học. Nhưng có lẽ do túc duyên nhiều đời, chí xuất trần đã sẵn, nên sau 6 năm sách đèn theo Khổng học, ngài quyết chí xin song thân được cùng người anh ruột xuất gia tu học tại chùa Tường Vân, làng Dương Xuân Hạ, quận Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên, thụ giáo ngài Thanh Thái (dòng thiền Lâm Tế) đệ tam tổ chùa Tường Vân. Ngài được Tổ nhận làm đệ tử ban Pháp danh là (thượng) Trừng (hạ) Thông, tự Chơn Thường.
Sau 3 năm, ngài đã học xong chương trình trung đẳng Phật học. Mặc dù trong thời gian mới nhập đạo này, đúng theo truyền thống Thuyền Tông, ngài phải chấp tác rất nặng nhọc, ngoài việc học hành kinh kệ.
Vốn bẩm tính thông minh, sẵn có một đạo phong uy nghi từ lúc hãy còn nhỏ tuổi, nên ngài rất được các bạn đồng tu kính nể. Cũng do tư chất đặc biệt xuất chúng ấy, mà ngài đã được đặc cách miễn tuổi để thụ Tam đàn Cụ túc vào năm 19 tuổi (năm 1910), chỉ 3 tháng sau khi thụ Sa-di giới. Đại giới đàn này do ngài Vĩnh Gia làm Đàn đầu.
Sau khi thụ Cụ túc giới trở về chùa, ngài phát tâm lạy bộ vạn Phật nhất tự nhất bái suốt ba năm liền. Và đến năm 23 tuổi thì song thân ngài từ trần cùng một lượt, ứng theo một lời nguyện khi sinh tiền của hai cụ là được vãng sinh cùng một lúc.
Năm 26 tuổi, ngài được bổ xứ trụ trì chùa Phước Huệ là chùa của Tuy Lý Vương lập cho một vị công tôn xuất gia tại Vỹ Dạ.
Năm 30 tuổi (1921), ngài đắc pháp và được Bổn sư cho kệ:
澄 聰 心 法 本 同 然
付 汝 真 常 道 志 堅
非 有 非 無 非 所 見
寂 然 開 悟 主 人 前
Phiên âm:
Trừng Thông tâm pháp bổn đồng nhiên,
Phó nhữ chơn thường đạo chí kiên.
Phi hữu phi vô phi sở kiến,
Tịch nhiên khai ngộ chủ nhơn tiền.
Tạm dịch:
Tâm, pháp Trừng Thông vốn tự đồng
Đạo thường, chí vững gởi trao ông
Chẳng không, chẳng có, không gì thấy
Trước chủ nhân khai ngộ lặng trong.
Và được cho đạo hiệu là Tịnh Khiết. Ngài thuộc đời thứ 42 dòng thiền Lâm Tế, đời thứ 8 pháp phái Liễu Quán Nam Hà. Năm Ất Hợi (1935) đời vua Bảo Đại triều Nguyễn; pháp huynh của ngài trú trì tổ đình Tường Vân viên tịch, ngài được kế thế ngôi vị trú trì từ đây. Năm này ngài được 44 tuổi đời. Ngài thường được thỉnh vào cung nội để giảng pháp cho Hoàng gia, nhất là cho Tam tôn cung tức là các bà Thánh cung, Tiên cung và Từ cung.
Năm 32 tuổi, ngài trở về tổ đình cư tang nghiệp sư viên tịch. Sau đó ngài theo học lớp Cao đẳng Phật học với Hoà thượng Huệ Pháp - chùa Thiên Hưng; ngài Phước Huệ - chùa Thập Tháp, tham cứu kinh điển Đại thừa suốt thời gian 5 năm.
Năm 42 tuổi, ngài làm dẫn thỉnh sư tại Đại giới đàn Từ Hiếu.
Năm 44 tuổi, ngài trở về trú trì chùa Tường Vân, kế vị Hoà thượng Tịnh Hạnh là anh ruột ngài vừa viên tịch.
Năm 1938 ngài làm Chứng minh Đạo sư sáng lập An Nam Phật học hội.
Năm 1940 ngài làm Giám đốc Đạo hạnh, Cao đẳng Phật học viện mở tại tổ đình Tường Vân và Báo Quốc, có những Tăng sinh về sau trở thành những bậc pháp khí như cố Hoà thượng Thiện Hoa, Hoà thượng Thiện Hoà, Hoà thượng Hành Trụ, Thượng toạ Trí Tịnh, Thượng toạ Thiện Siêu, Thượng toạ Thiện Minh, Thượng toạ Trí Quang...
Năm 1944, ngài làm Yết-ma Đại giới đàn mở tại tổ đình Thuyền Tôn.
Năm Ất Dậu (1945), ngài phó pháp cho pháp tử pháp danh Tâm Ấn, tự Vĩnh Thừa, hiệu Viên Quang đời thứ 43. Trong dịp này, ngài ban cho đệ tử đắc pháp bài kệ dưới đây:
Hán văn:
心 印 圓 明 悟 道 先
參 禪 了 達 透 真 源
拈 花 付 汝 如 來 藏
續 焰 玄 燈 萬 古 傳。
Phiên âm:
Tâm ấn viên minh ngộ đạo tiên
Tham thuyền liễu đạt thấu chơn nguyên
Niên hoa phó nhữ Như Lai tạng
Tục diệm huệ đăng vạn cổ truyền.
Tạm dịch:
Sớm ngộ đạo mầu Tâm ấn sáng
Tham thiền đạt trọn thấu nguồn chơn
Nên học, ta gởi Như Lai tạng
Đèn tuệ muôn năm vẫn nối truyền.
Năm 1947, ngài thụ phong chức vị Tùng Lâm Pháp chủ Trung Việt.
Năm 1949 (Kỷ Sửu), ngài làm Đàn đầu Hoà thượng cho Đại giới đàn Báo Quốc và năm 1950 thì được suy tôn chức vị Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1951, ngài ra Bắc chủ toạ Đại hội Giáo hội Tăng-già toàn quốc tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.
Năm 1952, ngài trở vào Nam chủ toạ lễ truy phong Pháp chủ Phật giáo Nam Việt tại chùa Ấn Quang.
Năm 1955 ngài tham dự đại hội Phật giáo Thế giới tại Tích Lan (Sri Lanka) và chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ.
Mặc dù công việc đối ngoại của Giáo hội đa đoan, ngài vẫn không bao giờ xao lãng việc nhiếp hóa đồ chúng, tùy căn cơ trình độ. Trong một mùa an cư, ngài đã gởi đến quý vị Đại đức Tăng Ni những lời huấn dụ như sau: "Đạo Phật tồn tại không chỉ y cứ vào những hình thức chùa tháp, lễ nghi, kinh điển - mặc dù kinh điển là kim chỉ nam hướng dẫn ta trên đường đi tới đạo quả vô thượng Bồ-đề.
Nhưng sự tồn tại đích thực chính là sự thể hiện đạo phong, những nếp sống gương mẫu của các bậc Tăng-già nghiêm trì giới luật và biết tận lực phục vụ chính pháp để chính pháp mãi mãi tồn tại với con người, cuộc đời và làm lợi ích cho chúng sinh".
Và có lần ngài gửi huấn dụ cho một đệ tử ở hải ngoại: "Vạn vật biến chuyển không ngừng, dục vọng con người khởi diệt thế nào con đã rõ. Bên trong thì tâm niệm sát-na vô thường, bên ngoài thì thanh sắc quyến rũ mãnh liệt, trong không chỗ nương, ngoài không chỗ tựa, bậc trượng phu giữa đời lại hiếm có, tự mình dễ cảm thấy lẻ loi. Nếu không phải là người nuôi chí xuất trần, quyết lánh vọng tìm chân, thì thật khó bảo toàn chí nguyện sơ tâm vậy".
Đối với những đồ đệ được diễm phúc sống gần gũi bên ngài đều cảm nhận: Ngài là hiện thân của một bài thuyết pháp hùng vĩ linh động qua đạo phong cốt cách, qua những lời giáo huấn vàng ngọc đề cao trí tuệ và đức tự chủ tự giác. ngài luôn luôn khuyến khích sự học hỏi Phật pháp cũng như thế pháp, nhưng đồng thời ngài vẫn thường khuyến cáo môn đệ đừng rơi vào cạm bẫy của trí thức suông. Trong việc tu trì, ngài khuyên đệ tử hãy luôn luôn nhiếp tâm chánh niệm trong bốn uy nghi vào tất cả các thời và phải tự chủ đối với pháp môn tu tập, chớ để bị pháp biến chuyển.
Ngài khuyên môn đệ sau mỗi thời tụng kinh, lễ bái hay niệm Phật, nên tập ngồi thiền, để tâm an trú ở chỗ vắng lặng, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, đừng mãi bám víu vào một câu trì chú hay niệm Phật. Ngài thường khuyên dạy bằng một lời vắn tắt: "Gắng tự làm chủ lấy!".
Đối với những Phật tử tại gia phải gánh vác nhiều bổn phận, ngài khuyên một phương pháp giản dị: "Mỗi tối trước khi ngủ, hãy ngồi thẳng trên giường, chí thành tha thiết niệm thong thả 10 lần cầu hồng danh Nam mô A Di Đà Phật".
Trong những năm sau này, khi một số đông Tăng Ni còn sơ cơ phải ra làm công tác xã hội thực thi hạnh cứu khổ, ngài không ngừng khuyên hãy thận trọng gìn giữ sơ tâm, nghiêm trì giới luật. Ngài nhấn mạnh phương châm "Tùy duyên bất biến" và khuyên đệ tử đừng bao giờ lợi dụng địa vị, tuổi trẻ, chức phận mà dễ dãi với bản thân và làm những chuyện phương hại đến đạo nghiệp.
Trong những năm khi tuổi đã già, sức đã kiệt, ngài thường dạy đệ tử: "Trước, ta dạy các con bằng lời nói, có khi bằng roi gậy, nhưng nay thì ta dạy bằng sự im lặng". Ai đã từng có duyên lành hầu cận ngài, đều phải công nhận ngài có một uy nghi hùng vĩ trong tất cả các thời. Mặc dù già yếu, ngài luôn luôn ngồi thẳng người theo thế nhập định.
Dáng đi oai vệ như sư tử chúa. Đôi tay dài quá gối buông thẳng khoan thai mỗi khi ngài đi bách bộ. Đôi mắt luôn luôn nhìn thẳng uy nghiêm. Và đặc biệt, ngài rất ít khi ngồi ở chỗ không phải chỗ ngồi thường nhật của ngài trong tự viện.
Trong những tháng ngài ngoạ bệnh phải vào điều trị tại dưỡng đường Duy Tân và Sùng Chính, những lúc bệnh tình trầm trọng, đệ tử có thăm hỏi: "Bạch Cố, Cố có mệt lắm không?" thì ngài trả lời: "Thân ta mệt, nhưng tâm ta thì không".
Hạnh giải thoát vô vi của ngài biểu lộ trong đức tính "Tuỳ duyên nhiếp hoá". Ngài không bao giờ tham cầu đệ tử hay nghĩ đến việc mở mang ngôi Tổ đình cho lớn rộng. Hình thức, nghi lễ không phải là mối quan tâm chính yếu của ngài. Nhưng có lẽ do định luật y báo, chính báo không rời nhau, nên ngài đến đâu thì trang nghiêm y báo, đồ chúng sum vầy, đông đúc.
Ngôi tổ đình Tường Vân đã bao năm điêu tàn vì thời gian và chiến cuộc, nhưng ngài không bao giờ cho phép đồ đệ quyên góp trùng tu, vì cảm thông tình trạng kinh tế eo hẹp của Phật giáo đồ hiện tại. Mãi đến gần đây, trong thời gian ngài xa Huế, một số đệ tử thân tín mới khởi công tái thiết. Lễ khánh thành sắp tổ chức thì được tin ngài tỏ ý mong trở về, và những căn rạp dựng lên cho cuộc khánh thành bây giờ lại được sử dụng cho tang lễ.
Mãi cho đến ngày rằm tháng 11 năm Nhâm Tý, từ Sài Gòn (lúc bấy giờ ngài an trú tại tu viện Quảng Hương Già Lam, do Hoà thượng Thích Trí Thủ làm giám viện), ngài quyết liệt bày tỏ ý muốn trở về Huế.
Trong lúc Hội đồng Lưỡng Viện tới làm lễ tiễn đưa ngài về Huế, Thượng toạ cố Viện trưởng Thích Thiện Hoa có bạch: "Xin cung thỉnh Đức Tăng thống sau khi về thăm cố đô ít ngày, rồi xin ngài trở lại để lãnh đạo Giáo hội". Ngài điềm nhiên đáp: "Thôi, tôi không vô nữa".
Sau khi trở về cố đô, ngài lần lượt viếng thăm các tổ đình Huế như Thuyền Tôn, Tây Thiên, Từ Đàm, Báo Quốc, Linh Quang, Quốc Ân, Kim Tiên... và các Phật học viện cùng Ni viện. Không ngờ, lần viếng thăm này lại là lần vĩnh biệt cuối cùng!
Trong dịp đầu Xuân Quý Sửu, khi quý vị Thượng toạ Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên đến tổ đình Tường Vân đảnh lễ chúc thọ đầu năm, dường như linh cảm trước sự ra về vĩnh viễn, ngài đã ân cần phú chúc những lời huấn dụ hết sức cảm động: "Tôi thấy sức khoẻ tôi đã kém nhiều, tôi khuyên các Tăng Ni, Phật tử cố gắng lo việc tu hành để báo đáp công ơn Tam bảo, thương mến mà đoàn kết với nhau để xây dựng Giáo hội và góp phần vào nền hoà bình dân tộc".
Ngài khuyên nhủ Tăng Ni cố gắng nghiêm trì giới luật để giữ gìn mối đạo và đừng bỏ rơi chúng sinh thời mạt pháp.
Chỉ sau vài ngày pháp thể khiếm an, ngài an tường xả báo thân vào lúc 20 giờ 45 phút ngày 23 tháng giêng năm Quý Sửu (nhằm 25-12-1973).
Ngài trụ thế 83 năm, Hạ lạp 62. Tháp ngài do môn đồ phụng lập tại khuôn viên tổ đình Tường Vân.